Xuất bản thông tin

null ĐTN BĐBP Tỉnh: Bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Chủ nghĩa xã hội – nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta

Chi tiết bài viết Tin tức sự kiện Trang bìa

ĐTN BĐBP Tỉnh: Bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Chủ nghĩa xã hội – nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta

Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ lâu dài, vô cùng khó khăn và gian khổ. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên chống phá Đảng, Nhà nước. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ảnh minh họa

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đó là khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí minh và Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Thế nhưng một số thành phần chống phá Đảng và Nhà nước ta cho rằng: "Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội là sai lầm". Song thực tiễn lịch sử đã bác bỏ luận điệu sai trái này và khẳng định sự lựa chọn con đường phát triển đất nước của Đảng, nhân dân ta là hoàn toàn đúng. Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và đạt thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức đúng đắn hơn, sâu sắc hơn và hình thành hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước, góp phần bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện nước ta hiện nay. Và từ đó chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Thực tiễn hàng những năm lãnh đạo cách mạng và thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã dành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... Những thành tựu đó đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối chủ trương, chính sách của Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta kiên định con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là sự kết tinh trí tuệ, sự sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Văn kiện Đại hội XIII thể hiện tư duy mới, tầm nhìn mới có tính đột phá, sáng tạo về sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới, trong đó, những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện rõ nét và sâu sắc.

Dự thảo văn kiện Đại hội XIII được hình thành qua một quá trình chuẩn bị công phu với rất nhiều bước, nhiều công việc. Bản dự thảo đưa ra lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, người Việt Nam ở nước ngoài là bản thảo thứ 22. Trước đó, Ban soạn thảo đã tiếp thu ý kiến các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, các chuyên gia…cho hoàn thiện một bước và công bố rộng rãi để xin ý kiến của toàn dân.  Bản thảo này là kết quả của rất nhiều cuộc lấy ý kiến của lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học. Trong quá trình hoàn thiện, việc đưa ra lấy ý kiến không chỉ mang ý nghĩa phát huy dân chủ trong nhân dân mà mong muốn lớn nhất là phát huy được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Mỗi lần lấy ý kiến là một lần các nội dung của văn kiện được nghiên cứu, tiếp cận, được góp ý từ nhiều phương diện khác nhau. Để đưa ra được dự thảo văn kiện lấy ý kiến nhân dân thời gian qua là một quá trình làm việc cực kỳ công phu với sự tham gia của rất nhiều chuyên gia, với nhiều hội thảo, tọa đàm để có được nội dung tối ưu.  Việc thảo luận, lấy ý kiến nhân dân có vai trò hết sức quan trọng, không những góp phần nâng cao chất lượng dự thảo Văn kiện mà qua đó, thực hiện phương châm hướng đến “ý Đảng, lòng dân là một”.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động vẫn không ngừng xuyên tạc về nội dung văn kiện, về quá trình lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo văn kiện. Chúng xuyên tạc Văn kiện Đại hội XIII là sự “sao chép”, là biến tấu từ văn bản các đại hội trước, nội dung không có giá trị gì so với sự phát triển của đất nước mà ngược lại là nhân tố kìm hãm sự tiến bộ của dân tộc ta; văn kiện Đại hội XIII cũng chỉ là những vấn đề sáo rỗng, giáo điều, bảo thủ, khư khư ôm giữ chủ nghĩa Mác - Lênin để duy trì quyền lực của Đảng mà thôi... Từ đó, họ kích động các đối tượng cơ hội, bất mãn viết bài tung lên Internet, mạng xã hội, tạo dư luận đòi Việt Nam phải thay đổi toàn bộ “bộ khung” hiện nay, tức là thực hiện “đa nguyên”, “đa đảng”, “xã hội dân sự” và “đừng trông chờ vào Đại hội XIII của Đảng” không thể đưa đất nước đổi mới, phát triển. Chúng quy kết việc “xin góp ý từ nhân dân” là hình thức “mị dân”, thời gian lấy ý kiến quá ngắn, “việc lấy ý kiến là dân chủ giả hiệu”....

Sự thành công tốt đẹp của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã dập tắt và phủ nhận hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc đó. Và nó đã  cổ vũ mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua khó khăn, thách thức, tranh thủ cơ hội mới, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua những chủ trương, quyết sách quan trọng để định hướng sự phát triển của đất nước ta đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045. Trong đó, có những vấn đề lý luận cốt lõi được đề xuất, bổ sung, phát triển trong suốt 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần hình thành hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng nhận định, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này đã góp phần giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng; góp phần thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội.

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong từng bước phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiếm bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Một số người cho rằng: điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chứng tỏ tư bản chủ nghĩa là ưu việt. Đúng là các nước tư bản phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và phía trước của sự phát triển ấy là gì.

Trước hết phải nói tới các nước tư bản chủ nghĩa đã có hàng trăm năm phát triển và sự phát triển đó đi trên máu và nước mắt của nhân loại thống khổ trên khắp các lục địa. Những kẻ thực dân châu Âu đã chiếm đoạt của cải, đất đai của các bộ tộc người da đỏ, gây nên hàng triệu cái chết ở Ấn Độ, châu Phi... dưới chế độ thực dân xâm lược. Còn ở Việt Nam chúng ta không thể quên được hơn 100 năm xâm lược, đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đối với nhân dân ta, bao nhiêu người dân Việt Nam đã phải chết trong các công xưởng, nhà máy, hầm lò, bến tàu chỉ để phục vụ lợi ích cho những kẻ thực dân.

Hậu quả của chiến tranh vô cùng nặng nề, có thể nói chúng ta bắt đầu xây dựng đất nước từ con số 0 và những thành tựu chúng ta có được ngày hôm nay đáng trân trọng, tự hào. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-2019, đạt mức bình quân 6,8%. Liên tiếp 4 năm, từ năm 2016 đến năm 2019, Việt Nam đứng trong số 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, năm 2020, trong khi đa số các nước có mức tăng trưởng âm hoặc lâm vào suy thoái do tác động của đại dịch Covid-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD, thì đến năm 2020 đã đạt 343 tỷ USD. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích lũy - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm... tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Từ năm 2002 đến năm 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đương nhiên những thành tựu này không thể so sánh với các nước tư bản chủ nghĩa có hàng trăm năm phát triển dựa trên sự bóc lột nhân loại. Nhưng cũng đủ để chứng minh sự sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có của chế độ tư bản chủ nghĩa để đánh giá tính ưu việt của nó với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện qyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lính vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản ở chổ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh và nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.[1]

Thế nhưng các thế lực thù địch vẫn hùa nhau chống phá Đảng bằng những luận điệu nguy hiểm: "Đảng đặt lợi ích giai cấp trên lợi ích dân tộc" hay "Đảng chỉ mưu cầu lợi ích của riêng mình". Chúng cho rằng, ngay từ khi thành lập Đảng đã coi lợi ích giai cấp trên lợi ích dân tộc và thậm chí đặt lợi ích của mình cao hơn lợi ích dân tộc, chỉ chú ý củng cố quyền lực của giai cấp, thao túng, bao che cho các "nhóm lợi ích" làm giàu, bất chấp nhân dân nghèo đói, đất nước lạc hậu.

Sự xuyên tạc này đã bị chính thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam bác bỏ hoàn toàn. Với đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giành độc lập, thống nhất nước nhà; nhân dân ta được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bởi đế quốc, thực dân, phong kiến, trở thành người làm chủ của một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay, dước sự lãnh đạo của Đảng tiến hành công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước từng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuộc sống nhân dân gặp nhiều khó khăn trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Đảng chủ trương phát triển kinh tế thị tường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Bên cạnh đó Đảng cũng rất coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn, phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng. Trước tình hình một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham nhũng, hối lộ, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng trong công tác cán bộ và quản lý kinh tế,... gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng ta đã nhấn mạnh: bất cứ ai, ở cương vị nào mà vi phạm kỷ luật đều phải xử lý nghiêm, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Quán triệt quyết tâm của Đảng, thời gian qua công tác phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả cụ thể, tích cực. Kết quả trong mấy năm qua hàng nghìn đảng viên đã bị xử lý kỷ luật do tham nhũng với những mức án cực kỳ nghiêm khắc.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển của đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một trong những đinh hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu , tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Những năm qua, quyền của người dân tộc thiểu số luôn là một trong những vấn đề được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Chúng coi đây là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong. Chúng lợi dụng các vấn đền về lịch sử, đất đai và cuộc sống khó khăn của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đẻ vu cáo Nhà nước ta phân biệt, đối xử, đàn áp dân tộc thiểu số hay ép người dân tộc thiểu số phải bỏ đạo, bỏ văn hóa dân tộc... nhằm kích động, lôi kéo người dân tộc thiểu số biểu tình, bạo loạn, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta. Chúng triệt để lợi dụng sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở một số địa phương, nhất là sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới và sự quan tâm đối với đồng bào các dân tộc nhằm làm cho hộ mất niềm tin vào Đảng và chế độ xã hội ta.[2]

Trước tình hình đó, quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhầ nước các cơ quan chức năng và cấp ủy, chính quyền các đại phương đã chủ động nắm tình hình địa bàn trọng điểm về dân tộc, tôn giáo, hoạt động của các tổ chức phản động lưu vong,... để triển khai biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn các vụ việc phức tạp ngay từ cơ sở trong đồng bào dân tộc thiểu số. Nhằm vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng, mua chuộc người dân, tránh các trường hợp bị lợi dụng tham gia vào các hành vi vi phạm pháp luật và đảm bảo lợi ích chính đáng cho đồng bào, người dân các dân tộc thiểu số. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định việc tôn trọng, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người nói chung, quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng là thước đo của sự tiến bộ xã hội, coi đó là một trong những nội dung quan trọng luôn được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước suốt những năm qua.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Đó là minh chứng khẳng định tính đúng đắn trong những đường lối, chủ trương và chính sách mà Đảng ta đã lãnh đạo. Trong đó chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta đóng góp phần lớn trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định an ninh, chính trị để phát triển đất nước. Việt Nam đã có chiến lược ngoại giao tổng hợp, trải rộng trên nhiều lĩnh vực gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh với nhiều mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Việt Nam thực hiện chính sách “ngoại giao cây tre”, đó là đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; kiến tạo môi trường hòa bình và ổn định để phát triển trên cơ sở hài hòa về lợi ích và chia sẻ rủi ro…, triển khai các biện pháp ứng phó linh hoạt, xử lý uyển chuyển, mềm dẻo về cách thức, nhưng kiên định về nguyên tắc”.

Gần đây đối với sự kiện chiến tranh Nga - Ukraine hay mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, xuyên tạc về cách ứng xử của Việt Nam để chống phá, chúng cho rằng Việt Nam thực hiện “ngoại giao đu dây”, “không dám thể hiện lập trường”, “Việt Nam sợ Trung Quốc” rồi chúng kêu gọi, kích động, đưa ra yêu cầu Việt Nam phải “đổi mới” đường lối đối ngoại… Chúng quên rằng Việt Nam đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh, chúng ta hiểu rỏ hơn ai hết sự khốc liệt, hậu quả của chiến tranh mang lại nó khủng khiếp đến thế nào và những gì tổ tiên, cha ông chúng ta đã hi sinh bảo vệ và để lại ngày hôm nay là đáng trân trọng, đáng tự hào. Chúng ta luôn luôn kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, tinh thần hòa hiếu, hữu nghị, dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột, đưa đất nước tới hòa bình, phát triển. Với đường lối ngoại giao khôn khéo, sáng tạo, hài hòa chúng ta đã cho nhân dân thế giới thấy một Việt Nam với khát vọng hòa bình, kiên cường, bất khuất đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa đất nước phát triển.

Với chính sách “ngoại giao cây tre” chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, từ việc chỉ có quan hệ với 30 nước (năm 1986), đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước của Liên hợp quốc. Trong đó, nước ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước (có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện, tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội nước ta có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam được mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chỉ tính riêng trên lĩnh vực kinh tế, xuất khẩu hàng hóa của nước ta tăng từ 162 tỷ USD năm 2015 lên 281,5 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân 11,7% giai đoạn 2016-2020, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Từ đó, chúng ta có thể thấy rõ những luận điệu về chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn sai lầm và chỉ có một mục đích đó chính là chống phá đất nước.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc còn nhiều khó khăn, thách thức. Song, những thành tựu đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã chứng minh con đường mà chúng ta đã chọn là đúng đắn. Vì vậy, chúng ta cần phát huy thuận lợi, tranh thủ thời cơ dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội./.

Đoàn Thanh niên BĐBP Tỉnh (TCKT)

 

[1]. Ban tuyên giáo Trung ương Đảng. Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nxb: Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr20, 21.

[2]. Tạp chí Quốc phòng Toàn dân. Góp phần  bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nxb: Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,4/2020, tr 324, 325.